Phòng viêm khớp dạng thấp mùa lạnh
Cập nhật ngày: 28/12/2017 06:33:18
Viêm khớp dạng thấp thường gặp ở lứa tuổi ngoài 30, bệnh xuất hiện quanh năm nhưng lạnh, rét bệnh thường xuất hiện nhiều hơn. Nếu không phát hiện và điều trị sớm, bệnh có thể để lại một số biến chứng.
Đa số lúc đầu là đau, viêm một khớp
Nguyên nhân và triệu chứng
Nguyên nhân gây nên bệnh viêm khớp dạng thấp chưa được khẳng định một cách chắc chắn nhưng nhiều giả thuyết cho rằng có thể là bệnh tự miễn và di truyền (mẹ truyền cho con gái).
Biểu hiện đầu tiên thường thấy ở bệnh viêm khớp dạng thấp là đau khớp. Có khoảng 15% số ca đau khớp đột ngột với các triệu chứng viêm cấp (sưng nóng, đỏ, đau). Đa số lúc đầu là đau, viêm một khớp (một trong các khớp bàn tay - cổ tay, bàn tay - ngón tay, khớp gối, cổ chân - bàn chân, ngón chân) và 85% bắt đầu từ từ rồi tăng dần.
Đau khớp kéo dài từ vài tuần đến vài tháng, sau đó chuyển qua giai đoạn toàn phát gây viêm và đau thêm nhiều khớp (khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp háng, đốt sống cổ, thái dương hàm, ức đòn).
Tính chất sưng, đau khớp có xu hướng lan ra 2 bên. Thông thường có ít nhất 3 khớp trong số các khớp này bị sưng và đau. Đặc trưng nhất trong viêm khớp dạng thấp là các khớp sưng, đau đối xứng nhau. Đau khớp nhiều vào ban đêm, nhất là lúc thời tiết chuyển mùa (mưa nhiều, thời tiết lạnh, rét). Triệu chứng cứng khớp cũng bắt đầu xuất hiện. Cứng khớp thường xuất hiện vào lúc sáng sớm vừa mới ngủ dậy. Ngoài đau khớp và cứng khớp, có thể có sốt nhẹ, da xanh, ăn ngủ kém, gầy, rối loạn thần kinh thực vật.
Để chẩn đoán chính xác viêm khớp dạng thấp cần xét nghiệm tốc độ máu lắng (tăng cao) và tỉ lệ CRP (C Protein Raection) tăng cao, nếu có điều kiện xét nghiệm yếu tố dạng thấp RF (Rheumatoid Factor) sẽ dương tính. Đây là một trong các yếu tố quan trọng để xác định viêm khớp dạng thấp. Chụp X- quang các khớp đau sẽ thấy có hình ảnh biến đổi xương (mất vôi, hình dải hoặc xói mòn hoặc khuyết xương hoặc hẹp khe khớp hoặc dính khớp).
Viêm khớp dạng thấp có thể nhầm với bệnh gì?
Viêm khớp dạng thấp có thể nhầm với một số bệnh về xương, khớp như: đau nhức xương hoặc mỏi cơ hoặc mỏi khớp (nếu đau vùng thắt lưng có thể nhầm với viêm cột sống dính khớp), loãng xương, viêm khớp phản ứng, viêm khớp vảy nến, lupus ban đỏ hệ thống, thoái hóa khớp, nhất là với người cao tuổi. Bệnh viêm khớp dạng thấp ở giai đoạn cấp tính có thể nhầm với bệnh gút, đặc biệt là nam giới ở lứa tuổi trung niên.
Vì vậy, để phân biệt với các bệnh khớp, xương khác, ngoài các dấu hiệu lâm sàng của từng giai đoạn (cấp tính và mạn tính), không thể không xét nghiệm yếu tố RF (chỉ có viêm khớp dạng thấp, yếu tố RF dương tính). Các loại không phải viêm khớp dạng thấp thường không đau khớp đối xứng ở một hoặc nhiều khớp.
Viêm khớp dạng thấp có biến chứng gì?
Viêm khớp dạng thấp có thể gây biến dạng khớp, co quắp các ngón tay, hạn chế chức năng vận động (khớp cổ chân, cổ tay, bàn tay…), gây teo cơ (bắp chân, bàn tay…) và tệ hại nhất là có thể bị tàn phế (khoảng từ 10 - 15%).
Nguyên tắc điều trị
Khi nghi ngờ bị bệnh viêm khớp dạng thấp cần đi khám bệnh và điều trị tích cực theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh. Nguyên tắc điều trị là giảm đau, giảm viêm và giảm cứng khớp.
Thuốc dùng để giảm đau chống viêm có nhiều loại khác nhau nhưng ngoài tác dụng chính (giảm đau, chống viêm) chúng còn gây nhiều tác dụng phụ. Vì vậy, người bệnh không nên tự chẩn đoán bệnh và không tự mua thuốc để điều trị cho mình hoặc người nhà khi không có chuyên môn về y học.
Những người bị viêm khớp dạng thấp có kèm theo các bệnh về hen suyễn, dạ dày, tăng huyết áp hoặc bệnh về thận càng hết sức thận trọng và khi đi khám bệnh cần cung cấp các thông tin về bệnh tật của mình cho bác sĩ khám bệnh biết. Trên cơ sở đó bác sĩ sẽ chỉ định điều trị thích hợp.
Cần lưu ý với người mắc bệnh viêm khớp dạng thấp là không được tiêm bất cứ loại thuốc nào vào vùng đau của khớp hoặc vào khớp khi chưa có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa khớp.
Viêm khớp dạng thấp là bệnh mạn tính kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, có khi hàng chục năm, vì vậy đòi hỏi người bệnh phải kiên trì điều trị, điều trị liên tục không để gián đoạn.
Người bệnh hàng tháng nên đi khám bệnh theo định kỳ để bác sĩ theo dõi tình trạng sức khỏe của mình thuận lợi hơn.
Theo TS.BS. Bùi Mai Hương/Sức khỏe & Đời sống/Dân Trí