Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Cập nhật ngày: 29/05/2025 05:11:19

ĐTO - Với lợi thế về nông nghiệp, huyện Hồng Ngự tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất. Qua đó góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân trên hành trình xây dựng huyện nông thôn mới...

Sản xuất rau an toàn trong nhà lưới tại Hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ rau an toàn Long Thuận (Ảnh: Mỹ Lý)
Khai thác lợi thế nông nghiệp
Theo đó, tăng trưởng khu vực nông - lâm - thủy sản năm 2024 bình quân đạt 4,22%, (tương đương 3.836,9 tỷ đồng). Trong đó, ngành hàng lúa gạo với tổng diện tích xuống giống duy trì hàng năm là 23.700ha; sản lượng cả năm 165.911tấn, cơ cấu giống lúa chất lượng có chuyển biến tích cực, diện tích lúa chất lượng cao chiếm trên 99%. Diện tích liên kết tiêu thụ trên 3.000ha với các doanh nghiệp. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, trên 90% diện tích sản xuất lúa áp dụng các biện pháp giảm chi phí đầu tư sản xuất. Đến nay, huyện có 51 mã vùng trồng lúa với 72 mã số, diện tích 10.700ha.
Hoa màu, diện tích sản xuất màu hàng năm 5.035ha, gồm các loại phổ biến như: bắp làm thức ăn gia súc; bắp ăn tươi, ớt, rau muống lấy hạt, mè, rau các loại, rau màu khác... Tình hình liên kết tiêu thụ màu ổn định, sản xuất mang lại hiệu quả khả quan cho nông dân. Trong đó, tiếp tục phát triển 2 vùng sản xuất rau an toàn tập trung tại xã Long Thuận và Phú Thuận A với tổng diện tích sản xuất 1.200ha. Diện tích canh tác rau đạt tiêu chuẩn VietGAP có 14,5ha. Diện tích rau màu trên địa bàn huyện năm 2024 được cấp mã số vùng trồng đạt 481,6ha.
Lĩnh vực chăn nuôi - thú y, đến năm 2024, phát triển đàn gia súc và gia cầm đạt 936.020 (gia súc 23.020 con; gia cầm 913.000 con). Nhìn chung, tổng đàn gia súc và gia cầm vẫn duy trì và phát triển ổn định, góp phần đảm bảo cung cấp lượng thịt hơi, trứng trên địa bàn ngoài tỉnh. Công tác phòng, chống dịch bệnh được quan tâm, tình hình dịch bệnh được kiểm soát trên đàn vật nuôi.
Đối với thủy sản, đến năm 2024, tổng diện tích thả giống 663,8ha. Tổng sản lượng thu hoạch cá thương phẩm đạt 62.500 tấn. Sản xuất giống xuất bán 13.142 triệu con. Đối với ngành cá tra giống, tổng diện tích sản xuất cá tra giống trên địa bàn huyện hiện có 296,66ha/799 hộ, cơ sở. Trong đó, diện tích nuôi cá tra bố mẹ 29,23ha với 84 cơ sở đủ điều kiện sản xuất kinh doanh. Giai đoạn 2021 - 2024, cá tra bột xuất bán đạt 12.321/12.000 triệu con, đạt 102,68% kế hoạch.
Tình hình hoạt động của các Hợp tác xã (HTX) trên địa bàn, huyện hoàn thành chuyển đổi hoạt động các HTX theo Luật Hợp tác xã 2023. Đến nay, toàn huyện có 17 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tổng vốn hoạt động của các HTX năm 2024 đạt trên 22,2 tỷ đồng.
Trên địa bàn huyện còn có 32 tổ hợp tác (THT), 382 thành viên, tất cả đều hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Bước đầu, các THT đem lại lợi ích cho nông dân và người lao động, giúp người lao động giảm chi phí sản xuất, trao đổi và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật cũng như kinh nghiệm vào quá trình sản xuất và kinh doanh. Nhiều THT sau khi được thành lập hoạt động hiệu quả, công tác quản lý điều hành chặt chẽ từ nguồn vốn góp đến khâu hoạt động sản xuất, kinh doanh, ổn định đời sống và thu nhập là tiền đề tốt, tạo bước đệm để dần chuyển sang mô hình HTX kiểu mới.
Hướng tới sản xuất bền vững
Trên địa bàn huyện đã hình thành và phát triển các chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả, qua đó các HTX thực hiện liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ với các doanh nghiệp ổn định, giá trị tăng thêm từ việc thực hiện các chuỗi liên kết từ 12 - 15 triệu đồng/ha (cao hơn 15 triệu đồng/ha so với diện tích bên ngoài). Mặc dù quy mô liên kết còn hạn chế nhưng đây là nền tảng tiếp tục nhân rộng trong thời gian tới để phát triển nông nghiệp của huyện bền vững, giúp cho nông sản của địa phương có đầu ra ổn định, tăng lợi nhuận và nâng cao thu nhập cho người dân, đặc biệt làm gia tăng giá trị nông sản sau chế biến và phát triển sản phẩm OCOP.
Bên cạnh đó, vùng nuôi cá tra xuất khẩu của huyện thực hiện tốt việc liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp, từ cung ứng vật tư đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm đầu ra với các doanh nghiệp như: Doanh nghiệp tư nhân Cỏ May, Công ty Cổ phần thủy sản An Giang... Qua đó giúp cá tra thương phẩm được tiêu thụ ổn định, lợi nhuận kinh tế đạt tốt.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có các mô hình liên kết điển hình trên cây lúa. Cụ thể, HTX Phước Tiền ký hợp đồng liên kết bao tiêu lúa với Công ty TNHH Thành Chào cả 3 vụ, tổng diện tích đạt 555ha; HTX Dịch vụ nông nghiệp Thường Thới Hậu A đã hợp đồng liên kết tiêu thụ lúa với Công ty CP Sản xuất nông nghiệp Lúa xanh đạt tổng diện tích 580,2ha... Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có nhiều công ty liên kết sản xuất tiêu thụ lúa cho nông dân. Mặc dù không đầu tư giống hay vật tư đầu vào nhưng các công ty đã ký nhiều hợp đồng bao tiêu lúa sản xuất theo quy trình an toàn, hạn chế dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, với giá thu mua cao hơn thị trường từ 50 - 100 đồng/kg.
Giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện tăng trưởng bình quân trên 4,2%/năm. Nhằm thuận lợi cho việc theo dõi và kiểm soát tình hình sản xuất, kiểm soát chất lượng sản phẩm, đồng thời đảm bảo nông sản đưa vào quá trình lưu thông trên thị trường phải đúng nguồn gốc tại vùng trồng, huyện đã hỗ trợ các xã, HTX đăng ký cấp mã số vùng trồng truy xuất nguồn gốc và đăng ký chứng nhận VietGAP cho các nông sản chủ lực của huyện (lúa, cây ăn trái...). Đến nay, tổng diện tích sản xuất cây ăn trái, rau màu theo quy trình VietGAP, diện tích sản xuất đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, đã được cấp giấy chứng nhận trên địa bàn huyện 198,7ha; có 70 vùng trồng được cấp mã số, diện tích 11.259,92/12.282ha.
Bên cạnh đó, huyện từng bước ứng dụng chuyển đổi số trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp. Hiện, các xã đều có ít nhất 1 sản phẩm chủ lực được ứng dụng chuyển đổi số trong truy xuất nguồn gốc, qua mô hình giúp nông dân tiếp cận công nghệ trong ghi chép, quản lý chặt chẽ sổ nhật ký sản xuất, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm nhanh chóng, chính xác, đặc biệt thể hiện tính chuyên nghiệp của nông dân trong sản xuất, khai thác thông tin và quản lý...
Y DU