Lên phương án trùng tu mộ Chánh lãnh binh Nguyễn Hương
Cập nhật ngày: 22/10/2014 13:35:44
Chánh lãnh binh Nguyễn Hương sinh năm 1819 tại thôn Tân Tịch, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang (nay là ấp Tân Tịch, xã Tịnh Thới, TP.Cao Lãnh). Ông là nhân vật có tài năng và công trạng đặc biệt, được thăng chức Phấn dũng tướng quân, Hậu vệ, Phó vệ úy, Thần cơ doanh vào năm 1861. Cuối năm Tự Đức thứ 17 (năm 1864), ông được điều về Hà Tiên, giữ chức Anh dũng Tướng quân Hà Tiên đẳng xứ Địa phương Binh quan, phụ trách chỉ huy quân đội tỉnh Hà Tiên, có công tiêu trừ, giải tán được những tên cướp biển trừ hại cho dân. Cùng lúc ấy, giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, ông không tuân mệnh triều đình ra hàng giặc mà rút quân về Láng Linh - một vùng sình lầy ở An Giang cùng với Quân cơ Trần Văn Thành lập chiến khu kháng chiến. Do lực lượng không cân sức nên cuối cùng nghĩa quân tan vỡ, Quân cơ Thành tử trận, ông thoát được trốn về nhà, rút theo quân bản bộ của mình. Tại đây, ông cùng với cấp chỉ huy thuộc quyền như: Kim Chung, Quản Bạch lấy vùng vàm Hổ Cứ làm căn cứ chống Pháp. Từ căn cứ này ông tung nghĩa quân đánh quấy rối, tiêu hao sinh lực địch ở Doi Me, Đốc Vàng, Vàm Nao, Mương Điều,... Chiến đấu một thời gian, lực lượng không cân sức, nghĩa quân lần hồi tan rã. Ông ra lệnh giải tán nghĩa quân, riêng ông sống ẩn dật trong cảnh túng thiếu cho đến lúc qua đời. Hiện nay, ông Nguyễn Văn Tiền, hậu duệ đời thứ 6 của Nguyễn Hương, ngụ tại khóm 6, phường 6, TP.Cao Lãnh đang giữ 8 tờ sắc phong của triều đình nhà Nguyễn, thời Thiệu Trị và Tự Đức phong cho Chánh lãnh binh Nguyễn Hương và ba mẹ ông.

Bác Nguyễn Văn Tiền giữ gìn, vệ sinh các sắc phong
Mộ Chánh lãnh binh Nguyễn Hương hiện tọa lạc tại ấp Tân Tịch, xã Tịnh Thới, TP.Cao Lãnh, cạnh bờ sông Tiền. Vào tháng 11/2013, Phòng Văn hóa và Thông tin (VH&TT) TP.Cao Lãnh phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử tỉnh, Bảo tàng tỉnh, UBND xã Tịnh Thới, cùng đại diện họ tộc Chánh lãnh binh Nguyễn Hương và những người dân sống tại đây đã tiến hành khảo sát thực trạng và tìm hiểu mộ phần của ông. Theo đó, sau khi chống Pháp thất bại, ông về sống ẩn dật và qua đời năm 1876, vợ ông là bà Lê Thị Lụa chôn cất ông cạnh nhà, mộ lúc đó là mộ đất, không có bia mộ. Vì ông là người chống Tây nên sau này đất đai của gia đình ông bị Pháp tịch thu xung vào đất công, cho dân thuê để trồng quýt. Năm 1964, Giáo hội phật giáo Hòa Hảo xã Tân Tịch kêu gọi đóng góp xây dựng vòng tường bằng gạch quanh mộ phần ông, phía trước mộ có xây khánh thờ để lư hương, chân đèn, không có lập mộ bia. Năm 2010, vòng tường mộ xuống cấp, hư hỏng, nấm mộ gần như phẳng lì. Ông Nguyễn Văn Tiền (cháu đời thứ 6) của Chánh lãnh binh Nguyễn Hương đứng ra tu bổ, xây dựng lại vòng tường bằng gạch và gắn thêm phần bia mộ như hiện nay. Mộ phần Chánh lãnh binh Nguyễn Hương có diện tích ngang 3m, dài 4m nằm trên phần đất thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Văn Nhảnh, tọa lạc tại ấp Tân Tịch.

Ngôi mộ của Chánh lãnh binh Nguyễn Hương
Ông Ngô Văn Hiểu - Trưởng Phòng VH&TT TP.Cao Lãnh cho biết, cuối năm 2013, UBND TP.Cao Lãnh đã có công văn đề xuất UBND tỉnh phương án trùng tu mộ Chánh lãnh binh Nguyễn Hương. Cụ thể, trùng tu phần mộ theo kiến trúc lăng mộ triều Nguyễn (thời Tự Đức) gồm các hạng mục như: vòng thành 1, vòng thành 2, mái cổng, bình phong tiền, sập, bia mộ, nấm mộ, khánh thờ, bình phong hậu; mở rộng diện tích 400m2 trên phần đất của ông Nhảnh để xây dựng lăng mộ; mở lối đi vào mộ dài khoảng 100m; đầu tư nâng cấp mặt đường đan 2,5m (trên phần đất của dân), ước kinh phí thực hiện gần 1,7 tỷ đồng (bao gồm chi phí trùng tu lăng mộ và đầu tư nâng cấp đường đan, chi phí bồi thường). Hiện địa phương đang chờ kết luận của UBND tỉnh về phương án trùng tu mộ Chánh lãnh binh Nguyễn Hương.
Việc trùng tu mộ Chánh lãnh binh Nguyễn Hương là việc làm thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của thế hệ hôm nay đối với các bậc tiền nhân có công với nước, với dân.
Hữu Nghĩa