Dưới ánh sáng của Nghị quyết 120/NQ-CP

Phát triển hợp tác xã nông nghiệp gắn với chuỗi giá trị nông sản là con đường ngắn và bền vững nhất đưa nền nông nghiệp Việt Nam cất cánh

Cập nhật ngày: 11/02/2019 06:00:56

Nhật Bản từ thiếu ăn sau chiến tranh nguyên tử của Mỹ đến dư ăn và trở nên cường quốc kinh tế sau Mỹ chỉ sau 25 năm nhờ chính sách phát triển nông nghiệp với lực lượng nông dân hùng mạnh trong hệ thống Liên hợp tác xã để thúc đẩy nhanh khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Trong khi đó tại Việt Nam, sau hơn 40 năm phát triển trong hòa bình thống nhất, lực lượng lao động đông nhất là nông dân của chúng ta vẫn còn nghèo mặc dù đã có nhiều tiến bộ nông nghiệp nước ta nhất là trong những năm thời tiết thuận lợi, cụ thể là năm 2017-2018 đã bội thu, xuất khẩu tăng rõ rệt nhất là mặt hàng trái cây nhiệt đới và thủy sản, hai mặt hàng đang được nông dân sản xuất một cách tự phát, manh mún bởi hàng triệu cá thể nhỏ lẻ. Bù lại phần nào cho những thiệt hại to lớn do thiên tai hạn mặn năm trước đã tàn phá hơn 200 ngàn hecta lúa được Nhà nước đầu tư kinh phí rất lớn để ngăn mặn và dẫn nước ngọt về vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long.

Trong khí thế thắng lợi của nông nghiệp Việt Nam năm 2017, chúng ta hoan nghênh Chánh phủ đã gỡ xuống cái kim cô “an ninh lương thực” trên mọi người dân để thay vào đó một tư duy mới rất phù hợp trong thời biến đổi khí hậu: không coi nước mặn là một trở ngại nữa mà nên biến nó thành cơ hội, bớt diện tích lúa để dành đất và tiết kiệm nước ngọt trồng những cây ăn trái có giá trị cao hơn. Và Nhà nước khuyến khích các địa phương đầu tư cho nông dân có thể lợi dụng cơ hội đó để chung tay nâng cao GDP của đất nước, nhờ có Nghị quyết 120/NQ-CP ban hành vào cuối năm 2017, mở ra một chân trời hy vọng cho kinh tế nước ta phát triển mạnh từ năm 2018. Mục tiêu cuối cùng của Đảng và Nhà nước muốn đạt tới là thật sự làm tăng lợi tức của nông dân bằng sản xuất có giá trị cao hơn, thay vì chỉ sản xuất lúa quá nhiều.

Bây giờ có Nghị quyết rồi, chúng ta phải làm sao đây? Nông dân đang ngon trớn trồng lúa, các địa phương đang ngon trớn dốc hết kinh phí tổ chức cho nông dân trồng lúa mà thôi, và chỉ tiêu pháp lệnh tăng trưởng GDP hàng năm Trung ương giao cho địa phương phải đạt được tính theo sản lượng lúa. Mặc dù giá lúa thấp, nhưng trong khi chưa có cây gì, con gì có giá trị cao hơn, thì việc tăng diện tích lúa vẫn là hướng đi dễ thực hiện vì cơ sở hạ tầng đã có sẵn, chỉ cần mở rộng ra thêm.

Như vậy, muốn thực hiện Nghị quyết 120, các địa phương sẽ giảm diện tích lúa để trồng cây gì có giá trị cao hơn nhưng tiêu tốn nước ngọt ít hơn, hoặc nuôi thủy sản có giá trị cao. Các địa phương đang rất lúng túng, vì “trồng cây gì” hoặc “nuôi con gì” đều phải bảo đảm có người tiêu thụ chắc chắn, nếu không thì vẫn cứ phải trồng lúa mới giữ vững được chỉ tiêu pháp lệnh GDP, mà như thế thì lại trở về đường cũ, lợi tức của nông dân không tăng bao nhiêu. Phá vòng lẩn quẩn của cây lúa, nhất thiết các địa phương cần qui hoạch lại các địa bàn nông nghiệp để bố trí những vùng lúa nào cần được thay thế, rồi chờ có các doanh nghiệp (DN) về đầu tư sản xuất cây trồng, vật nuôi mà họ có đầu ra chắc chắn, rồi Nhà nước, địa phương cùng DN đó mới cùng nhau tổ chức sản xuất lại tại vùng có qui hoạch mới đó. Bây giờ chúng ta mới thấy vai trò rất quan trọng của các DN chế biến và tiêu thụ nông sản, không thể thiếu trong chuỗi giá trị phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết 120. Không có DN, không có đầu ra cho sản phẩm của nông dân.

Phát triển nông nghiệp bền vững theo chuỗi giá trị cần một đổi mới thứ hai: người nông dân đổi mới

Viễn cảnh của một tương lai xán lạn của nền nông nghiệp mới của Việt Nam đang bày ra trước mắt chúng ta với những doanh nhân năng động gặp gỡ những nhà lãnh đạo năng động của các tỉnh cùng nhau quyết tâm thực hiện Nghị quyết 120 – sự đổi mới thứ nhất trong phát triển nông nghiệp Việt Nam - với sự trợ lực của các Bộ, ngành của Chánh phủ. Nhà nước trung ương và địa phương một mặt cần tiếp cận thông tin thị trường thế giới qua các phái bộ ngoại giao của nước ta gửi về để phổ biến rộng rãi trong nước, mặt khác đồng thời tìm ra những doanh nhân có tâm và có tài nắm bắt thông tin thị trường để tổ chức đầu tư chế biến, sản xuất những sản phẩm từ nông sản nguyên liệu địa phương có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng quốc tế hay trong nước.

Tất cả những cố gắng của Nhà nước trung ương và địa phương, cùng các nhà DN đều như “công dã tràng” nếu không có sự đổi mới thứ hai: đó là sự đổi mới của người nông dân. Phần lớn nông dân Việt Nam ngày nay là những người làm ăn nhỏ lẻ trên diện tích đất đai manh mún của mình, nhất là nông dân trồng lúa. Phần lớn bà con nông dân còn nghèo, hoặc rất nghèo. Suy cho cùng, cái nghèo của nông dân ta một phần vì chỉ biết trồng lúa giá quá rẻ mà chi phí quá cao, một phần vì chính họ luôn luôn chỉ suy nghĩ nhỏ lẻ, thiển cận. Họ không thấy xa hiểu rộng, chỉ khư khư giữ lấy miếng đất nhỏ bé của mình, từ cái bờ ruộng nhỏ hẹp cũng không muốn phá đi, không chịu cùng nhau dồn điền đổi thửa để có một trang trại lớn với những kênh tưới, kênh tiêu theo đúng kỹ thuật hiện đại. Dĩ nhiên ngày nay chúng ta cũng có một số nông dân giàu, nhưng đây là những nông dân thấy xa hiểu rộng, dám nuôi, trồng những gì khác hơn cây lúa, trên diện tích lớn. Làm sao cho người nông dân nhỏ lẻ chịu thấy xa hiểu rộng để tự họ cũng sẽ làm giàu được? Đây là một thách thức lớn nhất đối với xã hội nông thôn nước ta hiện nay.

Trước đây chúng ta “đổ thừa” cho Nhà nước ép dân trồng lúa, lúa và lúa; nhưng bây giờ Nhà nước đã đổi mới tư duy cho chánh quyền địa phương đầu tư đa dạng hơn cây lúa, thì đến lượt nông dân nhỏ lẻ cũng phải tham gia với Nhà nước trong chiến lược mới đã được chỉ ra trong Nghị quyết 120.

Người nông dân đổi mới mà đất nước ta cần trong thời đại này là những người nông dân tuy diện tích đất manh mún nhưng biết tự giác thỏa thuận đứng chung nhau trong những hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) kiểu mới để tạo thành một cánh đồng lớn, sẵn sàng liên kết với các nhà đầu tư lớn xây dựng vùng công nghiệp sản xuất rau quả chế biến, hoặc vùng công nghiệp thủy sản chế biến cung cấp cho thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Với sự tổ chức hợp lý của nhà đầu tư và Nhà nước, những người nông dân đổi mới này sẽ không bị mất đất, mà đất của mọi người trong HTX NN kiểu mới sẽ được phá bỏ bờ ruộng manh mún, cày xới và trang bằng thành cánh đồng lớn được phân lô ngay ngắn theo hệ thống kênh mương đúng theo kỹ thuật khoa học, có hệ thống giao thông thuận tiện cho việc chăm sóc và vận chuyển cây trồng hoặc thủy sản của bà con đến khu chế biến và bảo quản trước khi xuất kho giao cho khách hàng. Như vậy mỗi nông dân xã viên của HTX NN kiểu mới đều được chia lại diện tích (trừ tỉ lệ bỏ ra để làm kênh mương và đường giao thông) để canh tác, chăm sóc cây trồng, vật nuôi của mình dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật của DN.

Người nông dân đổi mới cộng tác trong môi trường mới này sẽ không còn lo lắng gì nữa trong quá trình nuôi trồng của mình và cũng không lo bị thương lái ép giá. Mọi thứ đều có nhà DN đầu tư lo. Người nông dân đổi mới sẽ thật sự đổi đời, lợi tức thu nhập ổn định cao hơn. DN cũng có thu nhập ổn định cao hơn, nên sẽ làm nghĩa vụ đóng góp vào GDP của địa phương tốt hơn.

Tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản

Thí dụ điển hình nhất là hệ thống HTX NN của Nhật đã giúp nông dân Nhật thoát cảnh nghèo nàn của những tá điền ngày xưa, và ngày nay trở thành những hộ nông nghiệp giàu sang ngang hàng hoặc có nơi hơn công nhân hoặc viên chức thư lại; luôn luôn giữ vững vị trí an toàn lương thực cho đất nước Nhật. Ngay sau khi đầu hàng quân Đồng Minh, Chánh phủ Nhật Bản bắt đầu ngay công cuộc sản xuất lương thực để ngăn ngừa nạn đói có thể lan rộng. Chuyên viên nông nghiệp của Hoa Kỳ trợ giúp chuyên viên Nhật giải quyết vấn đề quan trọng này. Đầu tư nghiên cứu khoa học nông nghiệp, phổ biến kỹ thuật cho nông dân đồng thời xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp. Họ cũng sớm nhận ra sự cần thiết phải khuyến nông cho toàn thể nông dân nắm kỹ thuật thích hợp. Công tác này là phải qua tổ chức nông dân vào HTX NN. Các chuyên viên đi tìm hiểu so sánh cách tổ chức HTX NN theo kiểu Hoa Kỳ hay kiểu châu Âu (Doco, 2008; Yoshihisa, 2014). Sau cùng họ chọn mô hình châu Âu, cụ thể là HTXNN của Đan Mạch (theo GS Kenji Cho, ĐH Kyushu). Từ đó Chánh phủ Nhật Bản coi HTX NN (viết tắt là JA – Japanese Agriculture) là một công cụ của Nhà nước trực tiếp giúp nông dân qua tài trợ ngân sách, hướng dẫn kỹ thuật, lập nhà máy chế biến, xay xát lúa gạo... và lập cửa hàng rau quả, thịt cá... để xã viên có nơi tiêu thụ hàng hóa sản xuất của mình.

So tình hình kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay, theo các kinh tế gia giàu kinh nghiệm của Nhật Bản vừa có nhiều kinh nghiệm với nông thôn Việt Nam như Giáo sư Kenji Cho của Khoa Nông nghiệp Đại học Kyushu, có thể nói trình độ nông thôn Việt Nam hiện nay đang ở vào thời điểm năm 1947 của Nhật Bản, lúc nông dân tá điền của Nhật được Toàn quyền Đồng minh cấp phát sở hữu ruộng đất từ tay các địa chủ.

Làm chủ đất với hai bàn tay trắng chỉ biết trồng trọt, chăn nuôi cổ truyền mà không có tiền đầu tư cho sản xuất, những người chủ mới này vẫn bó tay. Nhưng Nhà nước Nhật lúc bấy giờ thì không thể giúp vốn cho từng hộ nông dân được. Cách tốt nhất là tài trợ qua hội đoàn của nông dân và để họ tự quản lý vốn ấy dưới sự giám sát của Nhà nước. Do đó, Luật HTX NN đã ra đời, tạo điều kiện pháp lý cho nông dân hợp tác nhau sản xuất vừa tự họ nâng cao đời sống của từng hộ gia đình, và kết quả về mặt sản xuất lại tăng cao, đạt mục tiêu phát triển của Nhà nước.

Tại Việt Nam, Luật HTX đã được Quốc hội thông qua năm 1996 và một số điều của Luật này đã được sửa đổi vào năm 2003 và 2012. Nhà nước cũng đã ban hành quy chế các loại HTX, kể cả HTX NN. Tính chất của HTX NN khác với các loại HTX khác nên chúng tôi thấy rõ trong nông dân ít thiết tha hăng hái gia nhập. Chúng tôi tin rằng sẽ có một Luật HTX NN riêng cho lãnh vực nông nghiệp, với qui chế áp dụng cụ thể cho nông nghiệp rất hấp dẫn mà mỗi người nông dân khi tiếp cận với luật sẽ hăng hái xin gia nhập. Có lẽ Việt Nam chúng ta nên tham khảo các mô hình xây dựng HTX NN đơn mục tiêu của Nhật trong giai đoạn đầu. Đồng thời nơi nào có điều kiện, mà tinh thần xã viên đoàn kết cao, có nhiều nhân viên chuyên môn có thể thu dụng được, và có nhiều xã viên liên kết thuộc các DN trong vùng, các thành phần mua bán/thương lái, công nghệ chế biến nhỏ, những người cho vay trong nông thôn, thì Nhà nước địa phương có thể cho lập HTX NN đa mục tiêu thí điểm.

Đối với các nhà nông mục tiêu cuối cùng là làm sao bán được sản phẩm có lời nhất để làm giàu, cho nên HTX NN nào tạo điều kiện cho nhà nông đạt mục tiêu đó sẽ được nông dân hăng hái tham gia. Vào năm 2002, để tránh tình trạng nông dân không bán được sản phẩm và nhà DN không mua được nguyên liệu, Nhà nước đã có Quyết định 80/2002/QĐ-TTg để gắn nhà nông và nhà DN. Nhưng trong thực tế sự gắn kết này rất lỏng lẻo mặc dù cho phí quản lý đối với các DN rất cao. Vẫn còn cảnh mạnh nông dân bán cho ai thì bán, và mạnh DN mua của ai thì mua. Trong những hoạt động mua bán đó, đã có một số mô hình tương đối thành công hơn tại một số tỉnh, nhất là An giang và Cần thơ, khi DN gắn kết chặt chẽ với HTX NN thay vì với nông dân cá thể. Trong thực tế hiện tại, nhìn chung phần lớn DN và nông dân không gắn kết nhau, mà cả hai chỉ gắn với thương lái là chính. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục, cảnh được mùa rớt giá, bẻ kèo lẫn nhau, cho cả bộ máy chính trị của Đảng và Nhà nước phải ra tay tiêu thụ dùm cho nông dân. Trong điều kiện thuận lợi của Nghị quyết 120, chúng tôi đề nghị một cách tiếp cận thực tế phù hợp hơn với 11 bước đi cần thiết.

Kết Luận

Tóm lại, hội nhập kinh tế thế giới sẽ đưa đến những thách thức rất gay gắt đối với lao động Việt Nam, nhất là khu vực nông nghiệp. Người nông dân trong thời hội nhập của thế kỷ 21 không thể giữ mãi cách làm của thế kỷ 20, mà phải có trình độ kỹ thuật cao ngang tầm nông dân thế giới. Do đó nhất định nhà nông Việt Nam của thế kỷ 21 phải là những người nông dân đổi mới, được đào tạo với kỹ thuật cao hơn. Nhưng làm sao trong một thời gian ngắn mà chúng ta có thể nâng cao trình độ kỹ thuật của hàng triệu nông dân Việt Nam? Nhà nước không thể tổ chức đủ lớp học cho hàng triệu nông dân, mà nông dân cũng không có thì giờ đâu để học đủ thứ kiến thức, kỹ thuật. Một cách đi tắt đón đầu nhanh nhất là tổ chức cho nông dân thành lập HTX NN kiểu mới như đã trình bày trên đây, và quan trọng tiên quyết là gắn kết một doanh nghiệp với một hay nhiều HTX NN. DN có thị trường, biết rõ loại nguyên liệu cần mua, do đó sẽ hướng dẫn HTX NN sản xuất đúng theo yêu cầu. Muốn được vậy, chuyên viên kỹ thuật của doanh nghiệp sẽ đào tạo từng nông dân xã viên có kỹ thuật cao nhất để sản xuất nguyên liệu đạt chất lượng cao nhất. Sau đó trong quá trình sản xuất, nông dân sẽ được chuyên viên hướng dẫn từng khâu từ lúc đem giống về đến khi thu hoạch và sơ chế sau thu hoạch trước khi đưa và nhà máy của DN để chế biến thành phẩm.

Nông nghiệp Việt Nam sẽ phát triển thành công trong thời hội nhập kinh tế toàn cầu nếu Nhà nước tạo chính sách phù hợp để gắn kết nhà nông và nhà DN. Chúng ta hy vọng những khu công nghiệp rau quả hoặc thủy sản như mô tả trên sẽ bắt đầu hình thành ngay từ năm 2018 dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Nhà nước trung ương và địa phương. Đồng ruộng đổi mới của nước ta sẽ nhanh chóng được dồn điền đổi thửa để liên kết với các DN đầu tư cho mọc lên những nhà máy hiện đại chế biến nông sản và các phụ phẩm nông sản bên cạnh vùng nguyên liệu rộng lớn với cấu trúc hạ tầng hiện đại do những nông dân đổi mới canh tác theo kỹ thuật nuôi trồng an toàn hiện đại.

GS.TS. Võ Tòng Xuân

Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ

< Trở về trang trước
Gửi bình luận của bạn