Cần thực hiện đúng quy định của pháp luật khi hoạt động karaoke
Cập nhật ngày: 26/07/2013 04:19:18
Được biết, hiện trên tỉnh có gần 400 cơ sở kinh doanh karaoke với quy mô lớn nhỏ khác nhau, đáp ứng được phần lớn món ăn tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, qua công tác kiểm tra, cơ quan chức năng phát hiện nhiều chủ cơ sở karaoke vẫn thiếu sự quan tâm đến việc chấp hành đúng quy định của Nhà nước trong hoạt động này; khoảng 80% các cơ sở kinh doanh karaoke không đảm bảo điều kiện hoạt động, chủ yếu là các lỗi che kín cửa hoặc thực hiện các hình thức nào làm cho bên ngoài không nhìn rõ toàn bộ phòng karaoke; tắt đèn phòng karaoke khi đang hoạt động, khóa hoặc chốt cửa phòng karaoke khi đang hoạt động; không đảm bảo đủ ánh sáng theo quy định tại phòng hát karaoke;... (những lỗi này đã được cụ thể hóa thành quy định có ghi phía sau Giấy phép kinh doanh karaoke).
Theo quy định tại Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 6/11/2009 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng và Thông tư số 04 Quy định chi tiết thi hành một số quy định tại Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103 của Chính phủ, có thể cụ thể hóa điều kiện kinh doanh và hoạt động kinh doanh karaoke như sau:
Cơ sở lưu trú du lịch đã được xếp hạng sao hoặc hạng cao cấp khi kinh doanh karaoke không phải xin phép kinh doanh theo quy định tại khoản 3, Điều 66 của Luật Du lịch ngày 14/6/2005 nhưng phải có đủ điều kiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 30 Quy chế.
Phòng karaoke phải có diện tích sử dụng từ 20m2 trở lên, không kể công trình phụ, đảm bảo điều kiện về cách âm (âm thanh vang ra ngoài phòng karaoke không vượt quá quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn mức ồn tối đa cho phép); phòng, chống cháy nổ; cửa phòng karaoke phải là cửa kính không màu, nếu có khung thì không được quá hai khung dọc và ba khung ngang, diện tích khung không quá 15% diện tích cửa; đảm bảo ánh sáng trong phòng trên 10 Lux (tương đương 1 bóng đèn sợi đốt 40W) cho 20m2, bên ngoài nhìn thấy toàn bộ phòng karaoke; không được đặt khóa, chốt cửa bên trong hoặc đặt thiết bị báo động để đối phó với hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Địa điểm hoạt động karaoke phải cách trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, di tích lịch sử - văn hóa, cơ quan hành chính nhà nước từ 200m trở lên; đảm bảo các điều kiện về an ninh, trật tự quy định tại Nghị định số 72 của Chính phủ.
Chỉ được sử dụng bài hát đã được phép phổ biến, băng, đĩa đã dán nhãn kiểm soát theo quy định; không được bán rượu hoặc để cho khách uống rượu trong phòng karake; mỗi phòng karaoke chỉ được sử dụng một nhân viên phục vụ từ 18 tuổi trở lên, nếu nhân viên phục vụ là người làm thuê thì phải có hợp đồng lao động và được quản lý theo quy định của pháp luật về hợp đồng lao động; không được hoạt động sau 12 giờ đêm cho đến 8 giờ sáng (trừ phòng karaoke trong các cơ sở lưu trú du lịch được xếp hạng từ 4 sao trở lên hoặc hạng cao cấp được hoạt động sau 12 giờ đêm nhưng không quá 2 giờ sáng.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa đến 40 triệu đồng và các hình thức phạt bổ sung khác.
Nhằm đưa hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng đi vào nề nếp, cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra xử lý trong hoạt động này, bên cạnh đó đề nghị chủ các cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke chấp hành nghiêm quy định của pháp luật trên lĩnh vực kinh doanh dịch vụ karaoke, góp phần lập lại trật tự trên lĩnh vực này.
P.K