Võ Nguyên Giáp: Vị Tướng tài đức, văn võ song toàn
Cập nhật ngày: 05/10/2013 11:19:18
Vị tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng và trở thành vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi mới ở tuổi 37. Ông là một trong những vị tướng hiếm hoi trên thế giới, được chính những tướng lĩnh đã từng đối đầu trên chính trường phải cảm phục.
Vị anh hùng dân tộc Võ Nguyên Giáp
Vị Tướng ra đời vào mùa mưa lũ
Quê hương Quảng Bình từ xa xưa đã lưu truyền trong dân gian câu dân ca “Tháng bảy nước chảy lên bờ.” Tháng bảy âm lịch là mùa lũ lụt. Võ Nguyên Giáp cất tiếng khóc chào đời đúng mùa mưa lũ vào ngày 2 tháng 7 năm Tân Hợi, dương lịch là ngày 25-8-1911, trong một cái chòi cao cất tạm dưới gốc cây mít cổ thụ sau vườn nhà để tránh mưa to nước lớn.
Về ngày sinh của Giáp, các nhà nghiên cứu chuyên viết tiểu sử các yếu nhân thì mỗi người nói một cách. Chẳng hạn Jean Sainteny, trong phần chỉ dẫn tiểu sử Võ Nguyên Giáp (Notice biographique sur Vo Nguyen Giap) viết sinh năm 1912. Từ điển Bách Khoa (Larousse) của Pháp lại ghi năm 1911.
Thậm chí có tác giả như Boudare trong cuốn “Giap” do nhà xuất bản Atlas ấn hành năm 1977 viết “Sinh ra ở An Xá thuộc tỉnh Quảng Bình năm 1910.”
Còn tờ The Sunday Times số ra tháng 11-1972 James Fox ghi “Ông sinh ngày 1-9-1910” và James Fox khẳng định như đinh đóng cột rằng đó là ngày sinh chính xác, vì ông đã "tìm thấy giấy khai sinh của ông Giáp tại thủ đô Paris.” Tuy vậy, theo gia đình và họ hàng, Võ Nguyên Giáp sinh năm Tân Hợi, 1911 vào ngày 25-8 đúng vào mùa nước lũ Quảng Bình.
Ông sinh trưởng trong một dòng họ lớn, có tiếng tăm tại làng An Xá, họ Võ, có nhà từ đường khá to ở cuối làng. Cụ nội là Võ Quang Nguyên, một nhà nho đức độ và cụ bà Bùi Thị Giá rất mực đảm đang yêu thương chồng con. Giáp sinh ra không thấy mặt ông nội, nhưng cậu nhớ như in lúc bà nội mất bà mặc chiếc áo điều thắm.
Sau bao năm tháng chiến tranh, giặc giã liên miên, gia đình phải tản cư nhiều nơi. Việc cúng giỗ, trông coi phần mộ không có điều kiện, lâu ngày mộ các cụ bị thất lạc. Gần đây được sự giúp đỡ của bà con địa phương, con cháu đã tìm thấy phần mộ của các cụ, nằm trong thượng nguồn sông Kiến Giang.
Gia đình ông có bảy anh chị em nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Cụ thân sinh là cụ Võ Quang Nghiêm và cụ Nguyễn Thị Kiên.
Cụ Nghiêm là một nho sinh đã nhiều lần lều chõng đi thi tuy không đỗ đạt nhưng là một nhà nho có uy tín trong vùng. Cụ dạy chữ Hán nhưng khi phong trào học chữ Quốc ngữ phát triển ông chuyển sang dạy chữ Quốc ngữ cho thanh thiếu niên trong làng và bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Cụ Nghiêm tuy không phải là Tiên chỉ của làng nhưng mỗi lần làng có việc tế, lễ, đều mời cụ làm chủ tế.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, do phải thu xếp việc nhà nên chưa kịp tản cư cùng gia đình, ông Nghiêm đã bị giặc Pháp bắt đưa về giam ở Huế. Ông bị chúng tra tấn dã man chết ngay trong nhà lao Huế. Sau ngày đất nước thống nhất, con cháu đã tìm thấy và bốc mộ ông đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy.
Khác với cụ ông rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, giữ gìn nề nếp gia phong, cụ bà lại rất mực yêu thương, dang tay ôm con vào lòng đỡ lời cho con cái mỗi khi bị cụ ông mắng mỏ.
Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cụ bà cùng gia đình tản cư lên chiến khu Bang Rợn, huyện Lệ Thủy. Năm 1952 bà rời quê hương ra chiến khu Việt Bắc, rồi cùng gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở về thủ đô Hà Nội sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng.
Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa Kiều giàu sụ ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo nock (thuyền) chở ló (thóc) đi trả nợ. Cậu suốt buổi phải ngồi dưới nock trông ló, còn mẹ cậu phải đội ló chạy lên chạy xuống bến giữa trời nắng chang chang.
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu cần vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ. Phải chăng những ấn tượng sâu sắc đó đã góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng của vị Đại tướng - Tư lệnh đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này.
Một cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi
Mười bốn tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng (1925). Năm 1929, ông tham gia cải tổ Tân Việt Cách Mạng Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa phủ (Huế) vì tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp.
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được thả tự do. Ông hoạt động đấu tranh cách mạng trên mặt trận văn hóa, viết bài cho những tờ báo công khai hồi đó như Tin Tức, Nhân Dân, Tiếng nói của chúng ta, Lao động; làm biên tập viên cho các báo của Đảng; dạy Sử - Địa ở trường tư thục Thăng Long.
Năm 1934, ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Quang Thái, bạn học tại trường Quốc học Huế, một Đảng viên Cộng sản, cộng tác đắc lực của ông. Trong những năm hoạt động bí mật ở Hà Nội, hai ông bà đã từng chung sống ở căn nhà số 46 phố Nam Ngư. Năm 1943, bà Thái chết trong nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội.
Từ năm 1936-1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương lên cao, ông là một trong những sáng lập viên của Mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông cùng Trường Chinh là đồng tác giả cuốn sách "Vấn đề dân cày", trong đó nêu rõ quan điểm: ’’Vấn đề then chốt ở Đông Dương là trao ruộng đất cho dân cày’’.
Năm 1939, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng với Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được sự dìu dắt của Người, ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940. Tháng 5 năm 1941, trở về Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ông cùng các cán bộ cao cấp khác xây dựng cơ sở cách mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Năm 1942, ông phụ trách ban "Xung phong Nam tiến’’. Tháng 12-1944, ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trao nhiệm vụ thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Ngày 22-12-1944, tại một khu rừng ở Châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ủy nhiệm ông đứng ra tuyên bố thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay) với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy, ông được giao trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Cuối tháng 3-1945, ông đưa đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu Quốc quân của Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống nhất tổ chức thành Việt Nam Giải Phóng Quân.
Tháng 8-1945, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, làm tổng chỉ huy các đội Việt Nam Giải Phóng Quân và Ủy viên Ban chỉ huy lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II (1945) bầu ông vào Ban chấp hành Trung ương và làm Ủy viên Thường vụ Trung ương. Ông tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ. Trong Chính phủ Liên hiệp thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi). Cũng trong năm 1946, ông lập gia đình với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản, ông bắt đầu lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) với cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh Quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ. Ngày 25 tháng 1 năm 1948, ông được phong Đại tướng theo Sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948. Tháng 8 năm 1948, ông là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Tháng 6-1950, theo Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, ông giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh, Tổng Chính ủy Bí thư Quân ủy Trung ương. Ông liên tục đảm nhiệm những chức vụ trên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975).
Trong 21 năm (1954-1975) của cuộc Chiến tranh Việt Nam, ông thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam, tham gia xây dựng chiến lược chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động của Quân đội Nhân dân trong chiến tranh. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều hoạt động Đảng cộng sản và Nhà nước khác.
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963, ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.
Năm 1991, ông nghỉ hưu ở tuổi 80. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), 2 Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
Là một người có tài tổ chức, Võ Nguyên Giáp đã từng bước xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Là một nhà chiến lược - chiến thuật bậc thầy, ông đã từng bước lãnh đạo quân đội và nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Tên tuổi của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến thắng có ý nghĩa quốc tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam - chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị ở cấp cao nhất, trong đó có 30 năm là Tổng Tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quân đội và trong nhân dân, được coi là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là Người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Uy tín của Đại tướng tỏa rộng trong nước và ngoài nước.
Ký giả Peter MacDonald (Pitơ Mắc- đô- nan) người Anh viết: "1944 đến 1975, cuộc đời của ông Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, đã làm ông trở thành một trong những Thống soái lớn của các thời đại. Với 30 năm làm Tổng Tư lệnh và 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông đã tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh; khó có vị tướng soái nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở trình độ cao. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có".
Ký giả G.Bonnet (G Bonnê) người Pháp viết vào Từ điển bách khoa toàn thư Pháp: "Là người tổ chức Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự Mác xít kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp"
Nguồn: Quảng Bình non nước huyền diệu/Vietnam+
NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh - 2000