Bệnh bạch hầu và cách phòng tránh
Cập nhật ngày: 24/09/2018 10:50:14
ĐTO - Bệnh bạch hầu là loại bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên. Bệnh có thể gặp ở trẻ nhỏ và cả người lớn, dễ lây truyền từ người này sang người khác nhưng có thể được phòng ngừa thông qua việc sử dụng vắc-xin.
Khi mắc bệnh bạch hầu xuất hiện đám giả mạc trắng ở họng. Nguồn: Internet
Nguyên nhân lây truyền bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu thường lây lan qua tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang trùng bởi các chất tiết đường hô hấp hoặc qua các chất dịch ở sang thương ngoài da có chứa vi khuẩn bạch hầu. Trường hợp phổ biến gây lây lan là khi tiếp xúc gần với người bệnh khi họ ho, hắt hơi, hỉ mũi hoặc khi sử dụng các đồ vật có chứa vi khuẩn bạch hầu do người lành mang trùng đã sử dụng như cốc, khăn,...
Đối tượng nguy cơ mắc bệnh cao
Do bệnh lây truyền qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc dịch mà những người mang mầm bệnh. Tuy nhiên chỉ những người chưa được tiêm vắc-xin hoặc trường hợp đặc biệt mà có suy giảm miễn dịch, không có miễn dịch với bạch hầu thì dễ mắc bệnh.
Triệu chứng
Dấu hiệu của bệnh bạch hầu thường xuất hiện trong vòng 2-5 ngày sau khi xảy ra nhiễm trùng. Một số người không gặp bất kỳ triệu chứng, trong khi những người khác có triệu chứng nhẹ tương tự như cảm lạnh thông thường.
Các triệu chứng có thể nhìn thấy và phổ biến nhất của bệnh bạch hầu là xuất hiện giả mạc mặt sau hoặc hai bên thành họng, có màu trắng ngà, xám hoặc đen. Giả mạc dai, dính, dễ chảy máu. Những triệu chứng khác bao gồm: sốt, ớn lạnh, sưng to ở cổ, ho, đau họng, khàn tiếng, chán ăn, chảy nước dãi, da xanh cảm giác khó chịu hoặc lo âu.
Các triệu chứng khác có thể xảy ra khi nhiễm trùng tiến triển, bao gồm: khó thở hoặc khó nuốt; có những thay đổi về thị giác; nói lắp; dấu hiệu của sốc, chẳng hạn như da nhợt nhạt và lạnh, đổ mồ hôi, tim đập nhanh; liệt.
Bệnh bạch hầu da cũng có thể phát triển nếu giữ vệ sinh kém, sống trong một khu vực nhiệt đới. Bạch hầu của da thường gây ra viêm loét và đỏ trong khu vực bị ảnh hưởng.
Cách phòng, chống bệnh
Trước khi có vắc-xin phòng bệnh bạch hầu thì bệnh xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước. Nhưng hiện nay do có vắc-xin và chương trình tiêm chủng mở rộng chỉ ghi nhận được một vài trường hợp mắc là do ở vùng sâu, vùng xa điều kiện vệ sinh kém và tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Hiện nay, bệnh đã được khống chế nhưng mọi người vẫn có nguy cơ mắc bệnh nếu không tiêm chủng đầy đủ và có tiếp xúc với mầm bệnh. Vì vậy, phương pháp phòng bệnh hiệu quả nhất là tiêm ngừa cho cộng đồng.
Đối với người đã nhiễm bệnh bạch hầu, cần cách ly bệnh nhân ít nhất 2 ngày sau điều trị kháng sinh thích hợp và đeo khẩu trang khi tiếp xúc. Ngoài ra cần vệ sinh phòng ở, đồ dùng cá nhân, đồ chơi... bằng dung dịch sát khuẩn để tránh lây lan cho người thân hoặc cộng đồng.
Đối với người chưa mắc bệnh thì tiêm vắc-xin là biện pháp tốt nhất để phòng bệnh. Để chủ động phòng, chống bệnh bạch hầu, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau: Đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu: Quinvaxem hoặc DPT (vắc-xin bạch hầu-ho gà-uốn ván), Td (vắc-xin uốn ván-bạch hầu) đầy đủ, đúng lịch; thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh; đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời; người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc-xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
Lịch tiêm chủng vắc-xin DPT hoặc Quinvaxem trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng: Mũi 1 tiêm khi trẻ được 2 tháng tuổi, mũi 2: sau mũi thứ nhất 1 tháng, mũi 3: sau mũi thứ hai 1 tháng, mũi 4: khi trẻ 18 tháng tuổi. |
Nguyễn Hiền